Trong Buốt Pha Lê
Tác giả: Nam Dao
Mầu lam nhạt pha loáng thoáng tím ngắt là mầu sáng một chiều đông rơi mau ngoài cửa sổ. Tôi đứng dậy. Ông ta lí nhí cám ơn rồi theo chân. Bước ra khỏi nhà quàn, tôi bảo « ...thôi về, tôi chở ông ».
Lên xe, ông ta im lặng.
Ông thờ thẫn nhìn ra trời tuyết. Trắng xóa. Trống vắng. Trùng trùng điệp điệp màu trắng và trống. Sự im lặng bỗng hóa ra bao la đến ghê rợn. Tôi nói lơ đãng « ... mùa dài tựa như không bao giờ dứt, ông nhỉ ! ». Ông ta vẫn im lặng. Xe đổ dốc trơn tuột, chúi xuống như trượt băng. Ðể chân nhấp lên bàn thắng, tôi buột miệng « Shit ! tay bẻ vô lăng quẹo trái vào con đường nhà ông.
Ðến cửa, ông ta ngần ngừ « Hay ngủ lại đây tối nay đi. Ðài T.V. báo mưa băng verglas, lái xe về Montréal có thể nguy hiểm...». Nhớ đến Felicia, tôi gật đầu. Mai là thứ bảy, ngày nghỉ. Tôi vào nhà, mở niên giám tìm tiệm Pizza, quay điện thoại gọi đặt một cái thập cẩm all-dressed, 16 inch. Ông ta lẳng lặng đem ra hai cái ly, rót scotch, đổ xô-đa vào đẩy một ly về phía tôi. Tôi lắc đầu. Ông uống ực một hơi, rồi đứng dậy. Ông cầm chiếc búa, bổ củi rồi chẻ ra thành từng khúc nhỏ bỏ vào lò sưởi. Nhóm xong lửa, ông lại ra ngồi, tay cầm cái ly tôi không uống, chép miệng « ... một mình, nay một mình ! ». Ái ngại, tôi nhìn ông. Ðể ly lên miệng, ông lại uống, rồi nói trống không « ... cả hai có lẽ đều đi lên Thiên Ðàng rồi... ».
Tôi mường tượng lại hình ảnh xác bà ta trong quan tài ở nhà quàn. Bà vốn đẫy đà, quan tài phải thửa riêng. Mắc chứng boulimie khiến lúc nào cũng ăn, bà phải nặng chứ ít cũng đến hơn một tạ. Trong áo quan, thân thể bà phồng lên như miếng buche phủ đầy kem. Nhà quàn trát phấn, tô môi cho bà, hai môi đỏ chót nhìn tưởng như trái cerise thường để trên trang trí cho loại bánh ngọt rẻ tiền. Ông ta lại quơ chai scotch. Chuông cửa reo. Chắc người ta giao pizza. Tôi đứng dậy.
Cắt pizza, tôi bảo « Ăn, không ăn uống say chết ! ». Ông ta gật gật, trông bất lực đến tội nghiệp. Ăn xong, tôi cời lửa, hỏi « ... Ông để tôi ngủ đâu ? ». Ông ta chỉ lên lầu, thẫn thờ « ... thì phòng Félicia trên đó ! ». Lên thang, tôi nói với xuống « ... cho tôi nghỉ một lát nhé ! », tay đẩy cửa căn phòng tôi đã một lần ngủ qua đêm cách đây chưa đến một năm. Bật đèn, tôi nhìn quanh. Vẫn thế. Nhưng thiếu, thiếu Félicia. Giường nằm cạnh tường, drap xanh màu nước trải rộng như đại dương. Bên cạnh, bàn ngủ đỏ au màu gỗ acajou. Vẫn hai bức ảnh. Ảnh khi Félicia học xong trung học, miệng cười rạng rỡ, mái tóc hung hung óng ánh đổ xuống bờ vai. Ảnh khi Félicia tốt nghiệp đại học, mũ có một tua đỏ, nghiêm nhưng hiền và đẹp như bức tượng Ðức Mẹ trong các thánh đường. Tôi nằm xoài trên giường, với tay tắt đèn. Ngay bên tai là tiếng pha lê chạm vào nhau thánh thót văng vẳng. Tôi nhắm mắt. Ai đó thì thầm. Tôi lắng nghe. Ðằng sau tiếng pha lê, đâu đó có một thứ âm thanh kỳ diệu, không phải là tiếng người, không phải là tiếng nhạc, là âm thanh nhưng sao lung linh màu nắng và mang theo những cơn gió. Lạ nhỉ. Âm thanh mà lại có màu. Có gió. Lại lung linh, có đời sống. Giá cứ nhắm mắt để có thể nghe những âm thanh đó, có lẽ tôi sẽ chắp tay cầu xin Ðức Mẹ cho tôi nhắm lại mãi mãi.
Trên con phố ngày xưa mang tên Maplewood, là rừng phong, là thơ, là mộng. Chợp mắt một đêm, sáng sau đường đổi thành Edouard Monpetit, tên một ông thầy tu giòng Tên nào đó mang khoa học nhân văn đến cái đại học nằm nghễu nghện trên núi. Ðêm hôm trước, trời đổ mưa. Sáng ra, trời bắt đầu đổ lạnh. Âm hai, rồi âm ba... và cứ vậy chênh chếch âm bốn C. Nước mưa bám trên những cành phong đông đá. Rừng phong dưới chân đại học hóa thành một rừng cây pha lê. Những cành khô bọc đá băng trong suốt lung linh dưới nắng. Nắng vàng rực rỡ. Nắng chói trên những bãi tuyết trắng xóa đã đậu lại từ tháng trước. Nắng làm cho trời trên cao xanh hun hút. Nắng làm tuyết óng a óng ánh, màu trắng của tuyết nay phơn phớt lân tinh biêng biếc lạnh, cái lạnh có chất ẩm luồn lách theo những cơn gióù. Gió liu riu, thỉnh thoảng lại tất tả thổi, rất bất ngờ, như nghịch ngợm, như trêu cợt. Lúc đó, những cành cây pha lê chạm nhau, tiếng leng keng văng vẳng, nhỏ nhẹ, mơ hồ, len qua những vùng mờ ảo của cảm giác lênh đênh bắt gặp lại từ một thời xa xưa quá vãng.
Rừng pha lê cất tiếng hát như thế đấy. Ðứng trên nhìn xuống, những cành phong còn non bọc trong pha lê xòa cong mình trong chiều gió thổi tựa như cả trăm cánh tay vũ nữ ba-lê cùng vung cao theo cung độ một bản thánh ca giao hưởng. Tiếng hát trong vắt thủy tinh vút đến từng li ti tế bào não bộ gợi lên nỗi bâng khuâng lẫn lộn vui buồn, không đối tượng, không chủ đích, không bất luận một thực tại nào. Trong thanh âm đồng ca một giọng nữ vượt cao va vào mây trắng dể văng vẳng vọng về tiếng lụa tơ tươm tả xé rách bươm hồn. Buột miệng, tôi khe khẽ nói một mình, hát tiếp đi, hát nữa lên, hát thế là hát như trẻ thơ. Félicia chau mày « Có gì mà phải hát. Chẳng lẽ vì đường đổi tên ? ». Bước quanh bức tượng Edouard Monpetit để vào cổng phụ Centre Social là nơi sinh viên đến trong giờ nghỉ học, Félicia trượt chân, tay víu vào tôi. Nó làu bàu « ...suýt nữa - ngước nhìn bức tượng nó buông sẵng - ... a, đừng có cười ta... ». Ðó là lần đầu tôi mê đắm cái trong suốt của cả cánh rừng băng đóng óng ánh pha lê. Ðó cũng là lần đầu tôi thấy Félicia nói với cái giọng khó chịu ta thán. Nhưng lạ thật, đó cũng là lần đầu bỗng nhiên tôi nẩy ý chiếm đoạt nó như một người đàn ông chiếm đoạt thân xác một con đàn bà, tôi - vừa bé vừa gầy - mà nó gọi là P’tit-corps, thằng nhỏ-con, một thằêng sinh viên da vàng đến từ cái vết ưỡn ẹo chữ S trên mảnh bức địa đồ mầu bôi lòe loẹt.
Quả là lạ. Từ ngày tôi nảy ra cái ý chiếm đoạt thể xác Félicia, tôi bỗng ngửi thấy một thứ mùi là lạ mỗi lần ngồi cạnh nó. Hít hà, tôi nhìn, cười cười « ... mi bôi cái gì vào người ». Nó trợn mắt « Không bôi gì. Tao chúa ghét nước hoa ! ». Tôi lại hít hà « ... có mà, cho tao ngửi ». Nó giả lả « ... mi vờ, mi định trêu tao ? ». Tôi chúi mũi vào tóc nó, rồi vào cổ nó. Ðẩy tôi ra, nó bảo « ... đừng làm trò khỉ, tao không thích thế đâu... ». « Không, có cái mùi hăng hăng, ngai ngái, nồng nồng... Hay là nách mi, cho tao ngửi ». « Không, khỉ lắm... ». Tôi dỗ mãi, tuần sau Félicia cho tôi chúi mũi vào nách. Vẫn không phải. Nhưng ngồâi bên nó, cái mùi hăng hăng, nồng nồng, gây gây vẫn cứ xông vào mũi tôi. Tôi nói. Nó cợt « ... hay là mùi da đỏ. Bố tao lai da đỏ đấy...». Nó đẩy tôi ra « ... nhưng tao không thích mi hít hà như thế ! ». Nó lại lạnh lùng quay mặt giấu vẻ bực dọc. Như thế, tôi lại càng thú vị.
Tôi làm quen Félicia năm ngoái. Nó lóng ngóng ôm một chồng sách, mắt ngơ ngác nhìn quanh tìm một chỗ trong thư viện. Ðứng dậy, tôi nhường chỗ cho nó. Nó mỉm cười cám ơn. Tôi vào lớp, hết giờ học lại quay lại thư viện. Ðến lượt tôi lóng ngóng tìm chỗ. Vào lúc sắp thi, bọn sinh viên lúc nhúc ngồi học, đứa nào đứa nấy cằm cặm cùi cụi. Thấy tôi, nó đứng dậy, nói nhỏ « ... giả chỗ cho mi ! ». Nó cười, ôm sách, chồng sách nặng trĩu. Một quyển rơi xuống đất. Tôi cúi nhặt. À, sách hội họa. Tác phẩm của Gauguin. Tôi đưa cho nó, nheo mắt, thì thầm « ... mi vẽ ? ». Một thằng sinh viên ngước nhìn, miệng khe khẽ suỵt. Félicia trề môi, lẳng lặng đi ra. Tôi theo. Ra khỏi cửa thư viện, nó quay sang hỏi « ... mi tên gì ? P’tit-corps ». Từ đó, nó gọi tôi là P’tit-corps, và hầu như chẳng bao giờ nghe câu tôi trả lời. Tôi hỏi lại, nó đáp nó ở cư xá sinh viên, chỗ Résidence cho con gái. Cười tủm, tôi bảo tôi là hàng xóm nó. Tôi ở trên dốc đồi, chỗ cư xá sinh viên con trai. « Sao chẳng bao giờ thấy mi đi ăn ở Caféteria[7] ? ». « Eo ôi ! Ăn cái quái gì được. Ngày nào cũng thế, này Pâté Chinois này, rồi ra-gu cừu, và cứ đến thứ sáu là cá... cá luộc, tanh lắm. Mà này, Pâté Chinois có thật là món Tầu không ? ». Tôi lắc đầu. Nó thất vọng « Tao thỉnh thoảng ăn món này để có cảm tưởng mình đang đu lịch. Mi nói thế thì chắc tao không ăn nữa ! ». Tôi cười cười « ... hôm nào tao mời mi đi ăn phố Tầu, góc La Gauchetière và St-Laurent. Ðến đấy, ăn món Tầu thật, không phải là Pâté Chinois... Mi tha hồ mà du lịch, muốn đến Vạn Lý Trường Thành cũng được ».
Ðể nguyên quần áo, tôi ngả người nằm xuống giường. Áp mặt vào chiếc gối, tôi hít vào, hít thật sâu. Cái mùi nồng nồng, gây gây, lại hăng hắc đâu đây ? Nhắm mắt lại, tôi tập trung cả trí tuệ lẫn giác quan vào cái mũi. Cứ thế tôi hít hà cho đến lúc nghe tiếng động khe khẽ phía cửa sổ.
Félicia ngồi, mặt hướng ra ngoài, lưng quay về phía tôi. Tôi hỏi « Mi đấy à ? Mi về lúc nào ? ». Tiếng đáp nhỏ như tơ «... mới đây thôi ! Mi ngủ say quá. Mi ngáy nữa, tiếng ngáy rông ron như tiếng mô tơ xe... ». « Ừ, tao mệt. Làm xong là tao lái xe đi đến thẳng nhà quàn. Mẹ mi nằm, mắt nhắm, trông thanh thản lắm ! ». Tiếng cười nhẹ. « Thanh thản. Dĩ nhiên là thế ! ». Tay đưa lên ve vuốt mớ tóc hung hung xòa xuống lưng, Félicia im lặng. Thỉnh thoảng có tiếng xe chạy, bánh lăn trên mặt lộ lạnh cứng đông đá nghe xào xạo.
« P’tit-corps, mi chắc còn giận tao ? » Félicia thốt lên. Tôi hờ hững « ... Giận mi làm chi ? ». Félicia lại cười « Không giận thì sao biệt tăm mấy tháng liền... rồi chỉ hôm ấy mới về với tao ! ». Bật miệng, tôi gần như quát « ... ừ, tao giận đấy. Mi khiến tao không làm được đàn ông ! ». Félicia thở dài « Mi vẫn là đàn ông. Nhưng mi mất mặt, tự ái. Chỉ có tao... » . Ngập ngừng, giọng Félicia nhẹ như tơ, trôi đi thoáng ánh sáng mỏng mảnh hắt qua cửa sổ, tiếp « ...chỉ có tao mới không là đàn bà thôi. Có đàn bà nào mà không tử cung, không bụng, rỗng tếch rỗng toác như thế. Ðã vậy, mi chẳng hiểu, còn tao, tao lại không có quyền giận mi. Thậm chí còn ân hận là đằng khác ». Ðưa tay lên vuốt ve mớ tóc hung hung xòa xuống lưng, Félicia co vai, mặt cúi xuống không nói gì nữa.
Thình lình, Félicia vui vẻ « ... mi có nhớ con bé Rosemary[8] ngồi cạnh chú chó sói của Perrault[9] không ? Tao gặp nó rồi ». Tôi lắng nghe, nhưng dĩ nhiên không tin, không tin một chút nào. « Hôm nọ, tao với nó rủ nhau cùng đi ăn sáng... ». Cười trong cổ họng, tôi gắt « Thôi, đừng nói láo, mi nói cho tao vui hẳn ! ... ». Quả là xưa nay cứ tôi thúc thì Félicia mới ăn một tí. Nửa miếng sandwhich[10], hai cái biscuits secs[11]. Vừa ăn, vừa lẩm bẩm đếm số calori trôi qua cổ. Và nhìn tôi, nó bảo « ... nể mi lắm. Tao vẫn ở mức 95 pounds[12]... Mi thấy, những đứa bé ở Biafra, có đứa chỉ 40 pounds mà vẫn cứ sống... Còn tao, đừng có lo gì... Mi thấy đó, tao vẫn đi học, đi thi... Trừ mi, có ai nói gì đâu. Tao vẫn bình thường - Félicia chép miệng - có chỉ còn hơi béo một tí. Tao xuống được thêm 10 pounds nữa thì parfait - thì toàn hảo - rồi mi xem... ». Tôi lại ngắt lời nó « ...Biafra, khiếp ! Thôi, không xem gì cả. Mở T.V., nào trung úy Calley châm lửa đốt nhà ở Mỹ Lai, nào đại tá Nguyễn Ngọc Loan kê súng sáu bắn vào đầu một thằng Việt cộng vụ tết Mậu Thân trên đường Nguyễn Tri Phương trong Chợ Lớn, nào bé gái tên Kim Phúc cởi truồng chạy trên Quốc lộ 1 ở Tuy Hòa, da thịt cháy xém vì bom xăng Napalm. Rồi ở Biafra. Nhìn mà kinh. Người đói chỉ còn da bọc xương. Những bộ xương khô cử động, và những cặp mắt to tròn, lồi ra, vô hồn... trong khi đó thì Hợp Chủng Quốc và Canada mang lúa mì ra đổ xuống biển để giữ giá... Thôi, đừng xem gì nữa. Ði học với tao trên thư viện, đợi 11 giờ đêm thì về ! Về sớm, lại mở T.V., lại thấy cảnh bom napalm cháy bùng lên da thịt trên châu Á, cảnh những bộ xương khô nghễâu nghện khập khiễng trên châu Phi... Ẹc, xem làm gì ! ». Félicia gật đầu. Nhưng mấy hôm sau, nó khều tay tôi « ...tao thử nhịn và sống cái cảm giác của những bộ xương khô xem sao nhé ! ». Tôi chửi nó « Mi ngu. Cuối năm nay ra trường rồi, ăn lấy sức mà học cho xong. Lại còn cái projet[13] tốt nghiệp... Mi có nghĩ đến cái dự án đó chưa ? ». Nó đáp, giọng ráo hoảnh « ...Rồi. Tên projet là Phù du : Sống trong mùa đông ». Trầm giọng, nó thì thào « ” Éphémère: Vivre en hiver”, loại installation[14]. Và nó sẽ phù du còn hơn cái tên tao đặt cho nó... ».
Chỉ vào bức tranh thủy mạc vẽ cành trúc cong veo của Tô Ðông Pha trong tập tranh cổ tôi mượn ở thư viện, tôi nói « ...đấy, cũng mùa đông. Một cành trúc ẻo lả trơ trụi. Và gió. Mi thấy không ? Mắt người họa sĩ phương Ðông khác. Không màu sắc lòe loẹt. Không hình thể mà là bản thể. Bản thể của sự vật... Ði đến đấy, tức đi đến ngưỡng cửa của bản thể chính người vẽ. Bước qua, là vào đến bản thể của cả vũ trụ... ». Nó tinh nghịch trêu « Ai dậy mi thế ! Tao chỉ thấy cành trúc này thật gầy gò. Sao mi không giục nó ăn như mi giục tao ? ». Tôi đỏ mặt, định cãi, nhưng rồi thôi, lảng « ...tao, tao chỉ định góp ý cho cái dự án tốt nghiệp của mi. Bọn học cùng lớp nói là Ðại học đề nghị cho mi giải thưởng của Thống Sứ Toàn Quyền Gouverneur, nếu như cái projet đó... ». Trừng mắt, Félicia sẵng « ... nghệ thuật không cần giải thưởng ! Mi nói lung tung ». Thấy tôi tiu nghỉu, nó nắm cườm tay tôi, dịu giọng « Rồi mi xem. Éphémère. Phù du lắm. Chỉ một giây là hết. Sau cái đoạn kết đúng có tích tắc đó, cái bề ngoài vật chất thăng hoa. Tao đã nghĩ kỹ rồi. Một cành trúc gầy không có sức biểu hiện đoạn kết đó... ». Choàng tay lên vai tôi, nó tiếp như để an ủi « ...mi sẽ là người đầu, và có thể cũng là người cuối cùng xem cái tác phẩm đó. Tác phẩm nào cũng đèo ngay định mệnh trong cả phần hồn lẫn phần xác của nó ».
Phải có cái projet bí ẩn của Félicia tôi mới khám phá ra sự tương phản giữa cá tính bên trong với cái bề ngoài của nó. Nó để tóc dài và chỉ mặc váy chứ không mặc quần bò Levis. Nó ít nói, rụt rè và khi nói thì nói nhỏ nhẻ với tất cả mọi người. Thế là tôi cứ mường tượng nó như những em gái Trưng Vương, ngay cạnh hông Sở Thú, những em tóc cũng dài, mắt cũng nhìn xuống e lệ, tay níu vạt áo xanh dương bay tốc lên trong gió sớm. Nhưng tôi nhầm. Cũng như tất cả những kẻ xung quanh nhầm. Ðúng, nó chăm chỉ, tỉ mỉ, làm gì cũng kêu « ...chưa, vẫn chưa hoàn hảo. Pas encore parfait ». Ðúng, nó ăn nói dịu dàng. Không, không phải thế, nó có nói gì với ai đâu. Chẳng nhẽ dịu dàng lại có thể chỉ là dư âm của sự im lặng. Không, cũng không phải thế. Và pas-encore-parfait là cụm từ đầy hiểm nghèo. Ði tìm sự hoàn hảo không phải là một cuộc phiêu lưu vô định hay sao ?
Nó mất cả tháng, kiện lên đến Khoa trưởng, nhất quyết thể hiện cái projet mà đám thầy, bà của nó cứ quầy quậy lắc đầu. Nó không chịu vẽ, nặn tượng, hay dệt vải, làm đồ gốm... rồi trưng trong đại sảnh của Ðại học như mọi sinh viên tốt nghiệp. Nó vẫn thưa gửi dịu dàng đủng đỉnh, không, nó nhất định không làm giống mọi người vì nó bảo sợ nhàm. Nó muốn thể hiện một tác phẩm có định mệnh. Phương tiện là médium, là môi giới. Médium của nó phải khác. Và thầy, bà lẽ ra là phải khuyến khích nó chứ. The medium is the message. Môi giới chính mới lại là thông điệp. Nhưng thầy, bà sợ cái mới. Sợ cái việc phải mặc áo quần mùa đông để ra khỏi đại sảnh chấm điểm tác phẩm của nó. Thầy, bà lắc đầu, than « ...con bé thật dị ! ». Nhưng rồi thầy, bà cũng phải chịu. Bà Khoa trưởng nhắc bốn năm nay điểm gì nó cũng hạng nhất. Và Ðại Hội Ðồng của Viện Ðại học đã chót đề nghị tên nó cho giải thưởng của Gouverneur Général, Thống Sứ Toàn Quyền, một giải thưởng lớn nhất cho sinh viên tốt nghiệp trên toàn đất Canada.
Kể từ dịp nghỉ lễ Giáng Sinh, Félicia lao mình vào cái projet đó như thiêu thân bắt được ánh đèn. Nó không ăn. Mỗi đêm chỉ ngủ năm tiếng, sáng dậy là cặm cụi dùng kìm uốn những sợi giây thép thành xương, thành sườn cho những mẫu hình người có, vật có, cây cối cũng có. Rồi nó nhào một loại bột như thạnh cao vào với đất sét.
Mua cho nó khúc thịt nguội và bánh mì, tôi mang đến phòng nó ở Résidence. Nó lẳng lặng đặt tất cả lên bàn, không nói không rằng, lại quay vào công việc. Nhìn lên tường, tôi sững người. Không hiểu nó cắt từ đâu toàn hình ảnh trẻ con Phi Châu bị đói ăn, mắt đứa nào đứa nấy sâu hoắm, nhưng long lanh khiến cho đầu chúng trông phình ra. Những cái đầu lâu sống động. Tôi nhìn Félicia. Vai nó gầy gò nhô lên. Tôi chợt nghĩ đến con vạc. Như cánh vạc bay là mi đấy à ? Tôi dịu dàng « ...tao mang về cho mi ăn. Không phải để mi bỏ đấy, thịt thiu rồi mi lại vất đi như những lần trước ! ». Nó ngước mắt, nhìn rồi lẩm nhẩm chỉ có thế mà tính ra những 2000 calori. Ðầu gật gù trông như phình to trên đôi vai mỗi ngày một cao lên và nhọn đi tựa chông vót, nó với lấy một miếng bánh, cố nhấm nháp rồi bảo « Thôi, P’tit-corps. Ðừng mua gì cho tao ăn. Thế này là đủ một hai ngày rồi... Có lẽ tuần sau tao sẽ làm xong cái projet. Tao nhờ mi khênh đi hộ... và giúp tao ba cái việc tưới nước ». Tôi thốt « ...tưới nước ? Mi có điên không ? ». Không đáp lời tôi, Félicia ra kéo tấm vải đậy một bức tượng làm bằng bột thạch cao trộn với đất sét trắng. Tượng nặn một đứa gái và một con chó sói. Ðứa gái to bằng người thật, tóc dài, trần truồng, ngồi co hai đầu gối lên, một tay làm dấu thánh giá, tay kia chìa ra vuốt ve đầu con chó sói mình chúi xuống, đuôi cong ngược về phía sau, mõm nghếch lên nhe nanh ra chực cắn. Tôi lùi một bước, hoảng hốt « Gì thế ? Phù du chỗ nào ? Sống trong mùa đông mà thế à ? ». Félicia nhìn tôi cười bí mật. Nó bảo « ...tao bỏ tượng vào lò nướng cho khô một tí rồi mới quét màu lên. Màu sẽ là màu nước, pha thật loãng cho nó giống thủy mạc phương Ðông để mi vui lòng, P’tit-corps ạ... ».
Sang giêng, tuyết đã phủ trắng một thành phố cứ choãi ra, im lìm, xa vắng. Khi khói lò sưởi lượn lờ trên nóc những mái nhà không bốc lên nổi trời cao để tan biến đi là những lúc lạnh nhất. Âm 20 độ C là ít, và có gió thì thành âm 30 , âm 40 . Gió thốc cái lạnh như thốc cả trăm mũi kim châm vào da mặt tê cứng không cảm giác sau chừng năm ba phút ra đường. Gió thế, người co lại, gập xuống, trong áo ngự hàn với nào là mũ, găng, khăn quàng, toàn thân xù ra như loại gấu lông xứ lạnh. Tôi lập cập chúi đầu bước, răng đánh vào nhau, miệng lầu bầu rủa trời mắng đất. Félicia lạnh lùng « Ăn thua gì, P’tit-corps. Cái âm trong lòng mới đáng sợ. Xem mấy bức ảnh tao dán trong phòng, mi sẽ thấy ». Tôi ngạc nhiên. Nó đủng đỉnh « ...trẻ con ở Biafra khi chết đói mắt vẫn mở, mồm há, răng nhe ra như cười. Còn cái bụng, cái bụng trẻ con chết đói là phình ra tròn vo. Ở đây, mi, tao, và mọi người mở T.V. coi những hình ảnh như thế, ngày nọ qua ngày kia, thì trong lòng âm bao nhiêu độ C ? P’tit-corps, thế giới nay ào vào hiện diện trong phòng khách mọi nhà. Chiến tranh Việt Nam với những cảnh thịt da bốc cháy lửa bom xăng đặc, và cơn đói Châu Phi với những cặp mắt con ngươi lồi ra, long lanh chất axít cồn cào của dạ dày bỏ trống. Những hình ảnh đó chập chờn hàng ngày ám ảnh. Tao tự hỏi, lòng con người có thể đạt đến độ âm nào ? Cái độ âm tuyệt đối ở đó mọi sự sống không còn ư ? ». Ðột nhiên, Félicia đổi giọng, đay nghiến « ...tao ích kỷ. Mi cũng vậy, P’tit-corps. Thật tội nghiệp ...», và nước mắt ứa ra. Ðó là lần đầu trong ba lần tôi thấy nó khóc.
Một sáng sớm đầu tháng hai, Félicia gọi điện thoại « ... mi đến giúp tao ». Chúng tôi lấy xe chở bức tượng đến Ðại học. Félicia đã chọn một chỗ đặt tượng ngoài trời. Cũng chính cái ý này mà thầy, bà trong khoa Mỹ Thuật ban đầu không chịu cái projet của nó. Họ bảo, nếu muốn xem tác phẩm mà phải choàng manteau, đi ủng, trùm mũ len và đeo găng tay thì có được ai ? Nhưng Félicia nào phải là đứa thiếu thông minh. Nó chọn khoảnh đất khá bằng phẳng ngay cạnh cầu thang dẫn lên Ðại học, xung quanh là những cây phong rụng lá nằm thoai thoải dốc đồi. Nó cười đắc thắng « ... muốn vào Ðại học lối này là phải xem. Éphémère, không muốn xem cũng chẳng được ! ».
Chúng tôi lấy chân dậm cho tuyết chắc lại trong một chu vi rộng độ hai chục bộ rồi mang nước tưới lên, băng dần dần đóng lại bóng loáng, hệt như mặt hồ vào mùa đông. Ðến khi hài lòng, Félicia mới mang bức tượng khỏi xe, tay gỡ mảnh vải chùm lên, răng lập cập đánh vào nhau vì lạnh. Tượng đứa gái đập vào mắt tôi : bây giờ, Félicia đã quệt lên mớ tóc dài màu hung hung đỏ, và cặp mắt, ôi cặp mắt xanh màu da trời, xanh và trong, trong suốt, nhìn không thấy được chiều sâu, hoặc giả có chiều sâu nhưng sâu hun hút, sâu đến tận vô cực. Màu da, màu da mới lạ, nửa ửng hồng, nửa tím nhợt nhạt, màu tím uốn rồi gãy theo khớp xương, xương sống, xương sườn, xương chân, xương cùi chỏ, xương đầu gối, xương lõm vào, xương lồi ra, uốn éo theo hình thể những bức ảnh treo trên tường trong phòng Félicia, ảnh của bọn trẻ ở Biafra bị bỏ đói. « Mà này - tôi hỏi, giọng thất thanh - Félicia ơi, tại sao bụng nó lại tròn tròn trên cái cơ thể gầy gò cong queo này ». Félicia đáp « Rosemary có chửa, mi quên rồi à ? Rosemary trong phim của Polansky đấy. Nó chửa, và cái bào thai trong bụng có thể là con của quỉ Sa-tăng ». Cúi xuống, tôi nhìn kỹ khuôn mặt đứa gái. Trời ơi, tôi kêu « ... tượng mi ư ? Sao miệng mi há ra như đang thét lên... ». « Không, tao có thét đâu, tao chỉ bảo con sói nhe răng định cắn rằng nhỡ cái bào thai tao mang đây là con của Chúa thì sao ? ». Tôi lùi lại. Răng con chó sói nặn bằng thạch cao được tô màu bích biếc. Còn mắt nó, đỏ hỏn, rừng rực lửa. Toàn là loại màu có lân tinh sáng lung linh, rờn rợn ma quái. Tôi thốt lên « Trời ơi ! Cái gì phù du ở đây ? ». Félicia cười nhạt, sẵng giọng « C’est à suivre, để hạ hồi hẵng hay... Dẫu con Chúa hay con Sa-tăng thì kết cuộc cũng phù du, cũng éphémère thôi ! ». Nói xong, Félicia với xô nước, nâng lên rồi xối xuống tượng đứa gái và con sói. Tôi hoảng hốt hỏi « ...mi làm chi vậy ? ». Nó không đáp, tiếp tục xối nước, mắt tập trung vào công việc như bị thôi miên, miệng mím lại. Nước đông lại, từng lớp băng dần dần đóng quanh bao bọc bức tượng. Gió ở đâu bất ngờ thổi. Hai đứa cùng quay lưng lại chiều gió, tay kẹp lấy vạt áo lạnh, khom người che mặt. Tay Félicia run rẩy. Khi dúng nước, cái lạnh là lạnh buốt hệt như thuốc tê khiến tứ chi mất hết khả năng cử động bình thường. Nó nhìn tôi cầu cứu. Tôi tiếp xô nước, xối như nó, đợi từng lớp băng đóng vào bức tượng. Cứ thế, chẳng nói chẳng rằng, tôi ngưng thì nó tiếp. Ðến quãng ba giờ trưa, lớp băng bọc đã dày độ hai milimét. Như mê mụ bởi lớp pha lê óng ánh phản chiếu mầu nắng và mầu trời thỉnh thoảng lại hiện lên dăm sắc cầu vồng, tôi nghiến răng chôn bức tượng vào lớp đá lạnh, xối nước như cái máy tự động cho đến lúc Félicia dằng xô nước đẩy tôi ra. Nó bảo « Thôi...được rồi ! Hệt như là verglas, mưa băng mùa đông. Ðấy, chẳng nghệ sĩ nào vượt quá được thiên nhiên... - nó ngửng mặt tiếp - ...lạy Chúa, xin vinh danh Người ! Quả là có thế thật ! » rồi bật cười tự chế diễu.
Chúng tôi lùi ra xa ngắm bức tượng bọc băng lóng lánh dưới nắng mùa đông. Félicia cắm biển bằng gỗ, chữ kẻ màu nâu « Éphémère : Vivre en hiver » rồi quay nhìn tôi, mặt tím ngắt vì lạnh, lắp bắp « Ça-y-est ! P’tit-corps. Xong rồi. Bây giờ về. Mi ôm tao cho ấm. Tao phải ngủ, có được không ? »
Lấy tấm chăn đắp lên người tôi, Félicia mơ màng « ...lại nhớ hôm mang Éphémère ra đặt cạnh cầu thang Ðại học. Tao lạnh đến độ chân tay cóng đến không còn cảm giác gì nữa. Chắc mi cũng thế, phải không ? ». Thì chắc chắn vậy. Nhưng tôi chỉ bậm môi, dìu Félicia vào phòng tôi. Lấy tất cả chăn gối ra, tôi đắp lên mình nó, rồi tôi xoa dầu nóng, lọ dầu con hổ bằng thiếc sơn đỏ bé bằng hai đầu ngón tay tôi mang theo từ ngày rời Sài Gòn. Tôi xoa lên năm đầu ngón tay, năm đầu ngón chân, lên ngực nó, xoa rồi tôi bóp tay, bóp chân, vuốt ngực, vuốt vú nó. Nhắm mắt, nó thỉnh thoảng rên nhè nhẹ, mái tóc hung hung đỏ đổ ra mặt tấm drap trắng như một vũng máu đang đông lại. Tôi rúc người vào trong chăn, ôm nó, lòng chập chờ một nỗi thương xót hoang mang, tay vuốt ra những khớp xương đang ấm lại dần, đầu mơ màng bất định. A, con bé ! Mi gầy như Rosemary, bức tượng đang chịu lạnh, cái lạnh âm 10 độ C ngoài kia.
Giọng Félicia lại vọng lại từ một quá khứ xa xăm « Mi biết chứ ? Mấy hôm sau tao ngày nào cũng ra xem những người đi qua nhìn bức tượng. Có kẻ bĩu môi. Có kẻ dửng dưng. Có kẻ dừng bước, chăm chú nhìn, rồi ngày nào đi qua cũng lập lại một động tác. Dừng chân, nhìn, khe khẽ lắc đầu tiếp tục đi. Báo Quartier Latin của sinh viên viết rằng bọn học Mỹ Thuật làm triển lãm tốt nghiệp Ðại học trong Hall, riêng có bức tượng Éphémère:Vivre en hiver là đặt ngoài trời. Tượng cóp nhặt dấu ấn của phái Expressionisme, nhưng Vivre en hiver thì dễ thấy chứ Éphémère là sự bịa đặt cốt thu hút chú ý của người thưởng ngoạn. C’est de la tromperie - đó là giả trá. Ðấy, chúng nó viết như vậy, tỉnh bơ, phán như lời Chúa phán. Bọn học cùng lớp bảo tao, mi phải viết trả lời bọn nó, giải thích Éphémère là thế nào, chứ để chúng nói lung tung thế sao ? Tao không viết, đáp cứ chờ, đâu cứ phù du là phải phủ nhận thời gian, cái chiều thứ tư phải thêm vào không gian ba chiều mắt nhìn không thấy. Một đứa năng nổ gọi điện thoại cho báo chửi chúng hồ đồ và lặp lại lời tao bảo là hãy kiên nhẫn đợi. Báo liền bồi thêm một bài ngắn vài chục chữ, Éphémère là phải đợi à ? Une contradiction dans les termes ! Một sự mâu thuẫn tự tại. Ha, ha - Félicia bật cười - chúng không chờ được, cái bọn hãnh tiến huyễn hão, bọn vaniteux. Nhưng trớ trêu, thật trớ trêu, chính hai cái bài báo đó đã khiến không biết bao nhiêu người tò mò đến xem bức tượng. Còn bức tượng, ánh sáng ban ngày thay đổi khiến màu sắc bỗng chuyển động hệt như sinh vật có sức sống bên trong. Ðứa gái tóc hung trần truồng lưng dựa vào gốc phong, mồm há ra kêu thét, mắt xanh trong, ngồi co chân lên, bụng có mang cong tròn, một tay làm dấu thánh giá, tay kia xoa đầu con chó sói lông xám, mắt đỏ màu lân tinh nhe răng xanh biếc ra chực cắn, chực xé, ven một cái hồ đông đá bóng loáng. Rồi họ viết, kẻ khen, người chê. Kẻ “nhìn” thấy Éphémère, người không. Kẻ cho là expressioniste, người lại bảo đó là hiện thực, thậm chí siêu-hiện thực. Rồi chê nhau, dè bỉu cho đến chửi nhau, và đôi khi quên hẳn đi bức tượng. Trong khi đó, con chó sói chỉ chực vồ Rosemary. À, mi có hiểu tại sao tao bảo con sói là của Perrault không? Con sói giả làm bà già định vồ con bé quàng khăn đỏ đấy. Lần này, sói hiện nguyên hình. Nhưng không có ông thợ săn vào đến cứu Rosemary cả. Chuyện đời không phải là cổ tích kể cho nhau nghe để an lòng. Niềm an lòng nếu có được đến từ đâu ? P’tit-corps, từ đâu hả mi ? A, nỗi phù du. Hiểu thế, có an lòng được không ? Tao không biết. Tao cố nghĩ là như thế. Nhưng sao hình ảnh những đứa bé bụng ỏng chỉ da bọc xương ở Biafra cứ ám ảnh tao từng giây từng phút, hả mi ? Phù du là đời sống, cớ gì tao lại để hình ảnh sự phù du ở Phi Châu trên màn ảnh T.V. vô hồn kia nó làm tao lợm giọng buồn nôn mỗi lần tao thấy đồ ăn thức uống ê hề ở xứ này ? ».