Trôi Sông
Tác giả: Phan Thái Yên
Trời chưa muốn sáng. Không gian còn sũng hơi nước từ cơn mưa hạ về qua lúc cuối đêm. Người đàn bà thức giấc vì tiếng mưa rì rào trên mái tranh rồi không ngủ lại được. Chị nằm trong căn nhà lạ lắng nghe tiếng nước giọt chạm vào máng tôn lanh canh đều đặn đâu đó phía ngoài hiên. Mưa tạnh rồi tiếng chim từng đàn bay. Âm thanh quang quác bay ruồng trên mái nhà rồi nhỏ dần mất hút nghe buồn buồn. Chưa kịp trở mình trên chút im vắng vừa có được, tiếng bầy chim khác lại xao xác bay qua. Chim gì mà lạ quá, chị thầm nghĩ, hình như chỉ bay theo một đường từ phía sông ra biển. Chị chưa hề nghe tiếng chim bay đàn vào buổi sáng bao giờ. Những ngày ở Nông Sơn, chị còn quá nhỏ chẳng còn sót gì trong trí nhớ, mơ hồ họa chăng tiếng chim tu hú kêu bầy trong đám mía còi dọc theo bến đò Cà Tang. Tháng năm lưu lạc theo chồng xuống tận miệt dinh điền Đồng Tháp tràm đước mênh mông riết rồi quen với hình ảnh từng đàn le le trên cánh đồng năng nước nổi. Hồi đó chị nhìn chim bay mà thương chúng sao quá lẻ loi trong lướt thướt ráng chiều. Thương mình sao lẻ loi giữa đất Sài Gòn hồi ba mẹ con hẩm hiu với nhau sau khi chồng chị qua đời. Sau ngày giải phóng, mẹ con phải bỏ trống căn nhà nghèo nàn cuối xóm bên bến đò Thủ Thiêm lên vùng Bình Dương đi kinh tế mới theo lệnh của nhà nước. Những buổi trưa trong căn chòi gió luồn vách thưa, tiếng chim cu rúc trong bụi chuối xơ xác mấy tàu lá khô vàng nghe mà buồn nhảo cả ruột.
Người đàn bà khoát mùng ngồi tư lự chờ sáng. Những vệt sáng mờ len qua vách nhà làm nhạt dần bóng tối trong phòng. Giờ này có lẽ thằng Lai con Lụa đã thức dậy cụ bị lên rẫy. Chị gạt nước mắt nhớ con, với tay quấn chiếc khăn rằng lên đầu rồi làm dấu thánh giá âm thầm đọc kinh cầu nguyện. Tiếng kinh hòa quyện theo nhịp thở đọng thành tràng giọt vô thanh lặng rớt vào hồn giúp người đàn bà lấy lại chút lòng bình thản. Chị xuống giường sẹ bước ra gian trước lờn vờn ánh sáng tỏa ra từ cái đèn hột vịt đặt trên bàn thờ. Tấm hình đôi vợ chồng đặt bên bài vị rờn rợn vắng xa. Chị đứng nhìn sửng vào đôi mắt hiền từ mà nghiêm nghị của người anh họ. Hơn bốn mươi năm suốt cuộc đời luân lạc của chị thoắt hiện trở về. Từ đầu nguồn sông Thu hắt hiu ghềnh Đá Bát bên bến Cà Tang nước cuộn, chị đã nổi trôi qua bao dòng sông bến nước để rồi chiều qua tình cờ thấy mình trở về đứng lạc loài nơi cuối dòng sông thơ ấu.
Cha chết năm chị lên mười vào giữa thời chín năm kháng chiến. Cả đoàn dân công tải đạn ra mặt trận bị máy bay Pháp rượt bắn. Xác cha đứt mất chân nằm trong cái hòm gổ sung xộc xệch được hàng xóm trong đoàn gánh chạy từ Trung Phước về bến đò trên chiếc vỏng đan dây dừa. Cha yên phần ông, mộ đắp trên ghềnh Đá Bát ấm áp khói hương. Chị thế cha giúp mẹ chèo đò đưa dân làng qua về bến sông kiếm sống. Hai mẹ con chèo chống rồi cũng qua những ngày sông Thu mùa lũ, ghe tròng trành quay như lá giửa dòng.
Kháng chiến thắng lợi mà đất nước thì bị chia đôi. Có điều phần được chia của kháng chiến lại nằm tuốt bên kia bờ Bến Hải phía ngoài Cửa Việt, Đông Hà. Người dân khốn khổ qua chín năm sống tiêu thổ chui rúc nay lại được kết nạp dỗ dành ai đi tập kết, ai ở lại nằm vùng.
Cô gái đưa đò tuổi vừa mười sáu hây hấy xuân thì lọt vào cặp mắt toan tính của các mẹ các chị trong hội Phụ Nữ xã và kế hoạch lâu dài của cách mạng. Thế là sau vài lần họp hành thuyết phục, duyên phận chị được định đoạt. Anh bộ đội người Đại Lộc về đóng chốt ở khu chiến Nông Sơn, hơn cả giáp tuổi, đã trở thành chồng của chị. Người thanh niên ít nói rụt rè giúp vợ chèo đò mấy tuần lễ trước ngày tập kết. Rồi đi.
Bộ đội ra Bắc. Không còn cán bộ Phụ Nữ họp hành kiểm thảo, không biểu tình, hết vót chông đào hầm, hết dân công tải đạn…thôn xóm vắng buồn như bến sông hẩm hiu con đò neo vắng khách. Đàn bà ở lại, có người không chồng mà tay xách nách mang. Nhiều người bụng đã lùm lùm thai nghén. Trong đó có nhiều cô gái còn bẽn lẽn dáng tân hôn, vụng về bước đầu làm mẹ. Những câu nói ngon ngọt dỗ dành trong các buổi họp phụ nữ trước đây trở thành niềm hi vọng cho những người đàn bà chờ chồng. Tập kết chỉ là tạm thời thôi vì hai năm sau sẽ có bầu cử, hiệp thương. Bộ đội đi rồi bộ đội sẽ về. Xóm làng rớt vào cảnh hồi hộp đợi chờ.
Ngày quốc gia tiếp thu mà ai nấy đều lo sợ vì nhiễm tuyên truyền rồi cũng lặng lẽ đến. Không thực dân đế quốc, không lê dương hảm hiếp, chẳng máy bay cà nông, chẳng súng ngắn súng dài. Chỉ lá cờ vàng ba sọc đỏ lặng lẽ bay trước sân ủy ban. Chừng như đã qua lâu lắm rồi cái ngày những người cán bộ ưu tú của cách mạng bước khỏi bong tàu Ba Lan, lạ lẫm từng bước chân dép lốp Bình Trị Thiên trên bến tàu ở Vinh hay Hải Phòng rồi biến mất âm thầm trong lòng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Cũng ông hương kiểm, ông tổng, ông lý trưởng trước hồi chín năm sống sót qua những đêm đấu tố địa chủ việt gian, nay là thân hào nhân sĩ, là xã trưởng, ấp trưởng. Cũng anh du kích hôm nào nay là nghĩa quân dân vệ, bận rộn vào ra không mục đích qua khoảng sân trước ủy ban lầy lội những ngày mưa. Cụ Diệm thì vẫn anh minh và lùn, duy chỉ cô em dâu thì ngày càng ngoa ngoắt hơn.
Nước sông Thu Bồn vẫn đêm ngày cuồn cuộn chảy qua bến Cà Tang. Cô gái vẫn giúp mẹ chèo đò. Dáng dấp nàng vẫn thon gọn xuân xanh trong lúc bụng chửa những người đàn bà có chồng tập kết ngày càng phểnh ra. Nàng chẳng hề hé môi cho ai biết về những ngày hôn phối của mình. Cô gái chẳng buồn nhớ và cũng chẳng tiếc rẽ chi sự vồ vập nửa vời hằng đêm của người thanh niên. Chỉ còn lại sự trở lăn lạ lẫm giữa đêm, một mình với cơn xúc động mồ côi rịn ràn vùng hạ lưu phong kín mép bờ. Còn lại nỗi phiền bực bị mang tiếng có chồng đi tập kết, nhiều tối phải chiếu gối đến trụ sở ấp mà ngủ trong tiếng muỗi vo ve, sàm sở ánh đèn pin của toán dân vệ và lời ghen tương than thở của đám đàn bà bụng bầu vượt mặt.
Những đứa con được sinh ra, lớn lên âm thầm như bóng trong nỗi đợi chờ, hi vọng một đoàn viên. Tình cảm gia đình, lòng thương yêu chồng con của người đàn bà Việt Nam đã xốc họ đứng dậy, dắt díu đứa-con-hiệp-thương nay đã biết chạy biết đi đòi tìm cha. Đúng như kế hoạch cách mạng đã đề ra bốn năm năm về trước. Một số cán bộ nằm vùng lác đác lộ diện hay tập kết lén lút trở về. Những nấm mộ chôn vũ khí được bới lên. Chiến tranh lại tiếp diễn trên đất nước đã quá nhiều đau thương bom đạn.
Mùa lũ năm đó người mẹ chết. Buổi chiều tang thương trên đầu sông Thu, con gái không kịp cứu được mẹ lúc chiếc đò lật úp giữa dòng nước xoáy. Mai táng mẹ bên cha nơi mộ phần lặng lẽ đầu ghềnh, cô gái bỏ đò bỏ bến xuống Hội An tìm sống.
Vợ chồng người anh họ cho cô về ở làm việc nhà và giúp săn sóc đứa con thứ hai của họ vừa chập chửng biết đi. Cô gái thích cuộc sống mới, không mấy bận rộn nhọc nhằn lại có đồng ra đồng vào nhờ nơi ăn chốn ở đã được chu toàn. Người anh họ là công chức ở thị xã, ông nghiêm nghị mà nhân từ. Người vợ dễ mến tuy bận rộn với cửa hàng tạp hóa bên phố chợ vẫn thu vén việc nhà và săn sóc con nhỏ. Bé Nhi ngoan hiền đang học tiểu học và cu Niên bụ bẩm mau lớn hơn những bé cùng tháng tuổi.
Phố Hội An tuy nhỏ nhưng đối với cô gái chèo đò từ vùng núi quê heo hút thì dãy phố xưa ngoằn ngoèo thâm thấp từng gian nhà mái ngói âm dương rêu đọng đã có một sức thu hút kì lạ. Giữa giấc trưa trong sân nhà bốn bề tường vây tĩnh mịch, chiếc phong linh treo dưới vòm cổng lặng câm chờ gió như bóng lá im lìm trên mặt đất. Qua mấy ô tròn trên cánh cổng nhìn thông ra phố, nhịp ngói mái nhà xiên xiên nối tiếp nhau địu vời từng vạt nắng xuống lòng đường phố xuôi dài như dãi sóng vàng quánh bất tận. Phía ngoài đó là cuộc sống. Là định mệnh đang chờ. Lòng cô gái náo nức muốn xô rộng cánh cửa bước ra.
Giữa đám đông người một đêm hội thả đèn họ đã tìm ra nhau. Hai tia mắt chạm nhìn rồi quay mặt, trốn tìm mà đã thuộc về nhau chẳng chịu rứt rời. Ở một đầu là cô gái không thướt tha, dáng vóc tảo tần, khuôn mặt còn son mà đôi mắt sớm buồn. Phía kia là anh lính dáng người đen đúa rắn rỏi, nét mặt thô chai sạm với tia mắt thu hút dữ dội của một con thú dữ săn mồi. Định mệnh đã khiến cô gái nhìn sâu vào đôi mắt đó.
Nhiều năm sau này, những lúc chị hồi tưởng về Hội An là nhớ về tháng ngày sôi nổi, thật sống với khát vọng yêu đương rực lòng cô gái đôi mươi. Quá khứ hằn lên trí nhớ những vết sướt cào tưởng còn tươm máu từ ngón tay sắc nhọn đam mê bấu lên da thịt. Những đêm hẹn hò trong góc vắng dưới chân Chùa Cầu hay trong bóng tối hiên đình Cẩm Phô là những lần thân xác tan nhập vào nhau chật cứng sổ sàng. Anh lính ôm người yêu thì thầm kể chuyện nhà với giọng nói miền ngoài xa xôi lạ lùng. Chuyện anh sắp mãn quân dịch muốn đưa cô gái về nhà tuốt tận trong Nam. Cô gái rướn nhận ngón tay thô tháp mân mê lên bờ ngực vun mềm rồi mơn động không ngừng trong thân thể nàng. Lịm người trong cảm giác trơn tuột, cô ghì siết vòng tay thêm chặt lên bờ lưng cuồn cuộn, môi hả trào bật cắn khoảng vai sạm nắng đượm mặn mồ hôi và máu rướm. Sức nóng cuồn cuộn của con trốt thô cứng xoáy từng cơn ruồng rật vào hang động làm chảy tan đầm đìa phún thạch. Bờ vai chắc nịch không ngừng nhấp nhô và nước sông Hoài dập dềnh xuống lên theo cơn gió thốc.
Cô gái biết ra mình có thai gần như cùng lúc tin người yêu được mãn quân dịch về lại quê nhà. Tuổi trẻ có những dại khờ của nó. Thay vì nói thật cho vợ chồng người anh bà con biết để lo việc cưới xin rồi chính thức theo chồng, cô gái bỏ nhà trốn theo người yêu.
Gia đình chồng gốc người Nùng di cư từ miền Bắc vào Nam sau ngày đất nước chia đôi. Cả họ đạo theo vị cha sở định cư sinh sống tại một khu dinh điền trong Đồng Tháp Mười. Vợ chồng sống yên ấm trong căn nhà nhỏ ở đầu con kinh Xáng thẳng tắp chảy ra Đồng Tiến. Lần đầu tiên trong đời, chị được sống trong ngôi nhà của riêng mình, hạnh phúc đơn sơ. Anh làm ruộng, chăm nuôi bầy vịt đẻ, và làm trưởng cái đồn dân vệ vỏn vẹn nửa tiểu đội dân quân đóng bên bờ kinh Ngang. Từ nhà người vợ có thể nhìn thấy lá cờ vàng quốc gia chấp chới bay trên nóc đồn. Cờ treo lên sào tre lủng lẳng sợi dây ăng-ten của chiếc máy truyền tin, phương tiện liên lạc duy nhất với đồn chính ở khu Hai và các đồn khác trong vùng, chỉ huy bởi một ông thiếu úy già Hòa-Hảo-đồng-hóa say sưa tối ngày.
Những ngày chồng lùa vịt vô đồng ăn lúa sót sau mùa gặt, chị nôn nao chờ, mặt trời chưa kịp lửng trưa đã chống xuồng bới cơm cho anh. Rạ mới dòn thơm là nệm chiếu ấm êm trong cái chòi vịt giữa cánh đồng vắng ngắt. Vợ chồng trần truồng giữa trời nước. Cảm giác hạnh phúc nhất là thói quen của nhau sau mỗi lần thỏa thuê cảm giác. Anh ngắm nhìn vợ đẩy đà bước xuống dòng kinh, chị đưa tay bới tóc cao rồi quay lại đón mời. Lùm điên điển lung linh trên triền nước trong nắng gió hây hây đồng nội. Chị đứng trâng nhìn chồng chắc nịch tồng ngồng xốc khỏi rơm rạ bước về phía chị. Họ trầm mình vào dòng nước mát hân hoan.
Cuộc sống gia đình êm đềm trôi theo từng mùa nước lớn ròng. Chị sinh thằng Lai rồi con bé Lụa. Cánh đồng vẫn bao la vắng ngắt, nhất là vào buổi trưa. Bầy vịt đẻ vẫn xúm xít bên đám ruộng nước mãn mùa, có khi chúng ngưng rỉa tìm nghiêng đầu hồi lâu nhìn đàn vịt trời đang sải cánh bay. Cánh đồng bất tận biết đâu phương hướng mà về.
Chị ở yên với gia đình chồng con chẳng để ý chi tới tình hình đất nước ngày càng chộn rộn. Anh em ông Diệm bị đảo chánh, chết bất đắc kì tử. Chiến tranh ngày càng lan rộng. Chồng chị phải vô đồn ngủ thường hơn. Rồi tai họa chụp xuống gia đình. Một bửa trưa chống xuồng mang cơm vô chòi vịt cho chồng thì thấy anh nằm hấp hối trong đống rơm. Lưởi mã tấu ngập sâu vào bụng, máu thấm ướt loang chiếc áo trây-di. Bản án cách mạng trừng trị tên trưởng đồn tay sai mỹ ngụy cũng bê bết máu. Chị hốt hoảng khóc ròng lúc anh gượng tỉnh dặn dò trăn trối. Chị cuống quít đẩy chồng máu me ra tới kinh Xáng rồi theo xuồng máy mới nửa đường tới bến đò An Long thì anh qua đời.
Chị nuốt đau thương chôn cất chồng. Buổi sáng sau ngày mở cửa mả, chị dắt con đến khu Hai gặp người trưởng đồn. Ông Thiếu Úy già giật mình tỉnh rượu. Chiếc xuồng máy chở ba mẹ con phóng thẳng ra Chợ Mới cho kịp chuyến xe qua bắc Năng Gù về Sài Gòn. Qua màn nước cuộn chị thoáng thấy ông Thiếu Úy đang hối hả tập họp lính dẩn vào đồn kinh Ngang. Trên đầu chị bầy le le bay tan tác giữa khoang trời mang mang châu thổ.
Người đàn bà thắp nhang đứng vái lạy trước bàn thờ. Chị kính cẩn nhìn vầng hương khói lung linh trước bài vị hồi lâu rồi thở dài mở hé liếp cửa lách mình ra đứng trước sân nhà. Chiếc thau nhôm cũ đầy nước mưa đọng nằm chênh vênh cuối hiên. Thủ phạm của tiếng lanh canh suốt đêm. Chị thầm nghĩ. Hơi nước còn đọng kín mặt sông và khoảng cửa biển đâu đó ở cuối dãi cát cũng mờ chìm trong sương. Bỏ lại phía sau màn sương trắng đục bầy chim chấp chới bay về biển trong khi xóm nhà còn biếng lười ngủ nướng trong buổi sớm cuối hè.
Cửa biển hiện dần trong sương tan thấp thoáng vài cánh buồm về bến. Người đàn bà cố mường tượng hình ảnh người anh họ đứng trên thuyền cá vất vã vào ra cửa biển những sớm hôm và dáng ông mệt mỏi bước qua dốc cát về nhà. Cùng lúc, bóng dáng nghiêm trang phong thái của ông bước qua cổng nhà vào những buổi trưa hơn hai mươi năm trước từ trong trí nhớ ập đến chiếm lĩnh, tràn lan vuốt mặt. Chị bâng khuâng nghĩ tới vợ chồng người bà con tốt bụng đã qua đời mà bàng hoàng thương đứa cháu gái phải sống đơn độc trong căn nhà sau cửa biển bất trắc cảnh đời. Tội nghiệp cho lớp tuổi trẻ phải sống lầm lủi xác xơ. Thằng Lai, thằng Niên, con Nữ, con Lụa…Sóng gió biển dâu chẳng chừa một ai. Và cả những tình cờ gặp gỡ trên đường đời cũng trở thành định mệnh trớ trêu.
Sau hơn hai năm cam khổ trên vùng kinh tế mới, cuộc sống của chị và con Lụa càng bi đát hơn lúc thằng Lai bị bắt đi bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế bên Miên. Ngày đứa con trai bỏ lại một phần bàn tay trên chiến trường giải ngũ trở về chị mừng như sống lại mà Lai thì hàng ngày chỉ câm lặng cày cuốc, sống bơ phờ xa cách trong một thế giới riêng rất buồn.
Nhiều tháng sau đó, trong một cơn say Lai khóc kể cho mẹ và em nghe đoạn đời máu me khốc liệt của mình. Chặng đường địa ngục mà sự lựa chọn chỉ còn là nỗi tuyệt vọng và tình thâm bằng hữu.
Nghĩa vụ quốc tế của bộ đội Việt Nam lan dần về phía biên giới Campuchia Thái Lan với những cuộc truy quét lính Khmer Đỏ lủi trốn qua những cánh rừng rậm dần về phía sông Mekong. Hi vọng của một số bộ đội Sài Gòn bị bắt đi nghĩa vụ trên đất Miên cũng lớn dần khi vệt quanh co như con rắn xanh trên bản đồ ngày một gần hơn. Lai và người bạn đồng đội trong một tổ tam tam được giao công tác đi kích trong khu rừng gần bờ sông cũng thuộc lớp thanh niên này. Dòng sông biên giới giữa hai quốc gia đã bao lần chảy qua giấc mơ họ cũng chính là lằn ranh giữa sự sống và chết. Qua sông về hướng tương lai là động lực duy nhất giúp họ chịu đựng gian nguy, bệnh tật, chết chóc. Nhiều người trong số họ đã bỏ cuộc, qui hàng số phận lúc mắt chưa thấy được ánh nắng lấp lánh nhảy múa trên dòng sông chảy xiết.
Người bạn chống súng đứng nhìn khúc sông ngầu đục phù sa, rời rã lục bình. Anh quay nhìn định nói điều gì đó nhưng vội nghiêm nét mặt khi thấy Lai quắt mắt về phía người tổ trưởng đang lúi húi đào hố cá nhân. Như rất nhiều tổ tam tam khác trong quân đội CSVN, người bộ đội miền Bắc là tổ trưởng chỉ huy hai tổ viên gốc miền Nam.
Một lúc lâu sau, lợi dụng lúc tổ trưởng không để ý, người bạn lại gần Lai nói vừa đủ nghe.
- Ba ngày kích ở vùng này tụi lính Pol Pot thế nào cũng đi qua. Chuẩn bị sẳn sàng. Lợi dụng lúc nổ súng, thấy tình hình thuận tiện là mình bỏ chạy ra bờ sông, lội qua bên kia ngay. Cứ chạy theo tao. Nhớ quàng theo lương khô trong bọc ni lông.
Phiên gác cuối đêm chậm chạp trôi qua trong mệt lã, chập chờn thức ngủ. Lai ngồi trong hố cá nhân nhầy nhụa sình, mí mắt nhấp nhem sụp nhướng, tai mơ hồ tiếng côn trùng và những hạt mưa len lẩy qua nhánh lá ngụy trang cắm trên nón cối. Cuối cùng Lai rơi vào cơn mơ nhập nhòa những vòng nước vầng lan và tiếng nước quẩy nhịp chèo khua. Con đò mẹ chèo tần tảo kiếm sống bên bến Thủ Thiêm lật chìm và bóng mẹ cuốn theo. Tay mẹ gầy trên dòng nước cuộn, câm sặc âm thanh, chới với chìm sâu… Lai giật mình tỉnh giấc. Dòng sông xa xa, lởn vởn lá rừng. Một đêm vừa qua, thấp thom tiếc rẻ. Đêm định mệnh sắp tới, hụt hẩng đợi chờ. Lai nhớ mẹ vô ngần.
Ngày thứ ba. Vạt nắng cuối ngày còn đọng nhấp nhô trên sông mà cánh rừng bờ Miên đã nhá nhem mặt người. Toán lính Pol Pot di chuyển qua vùng kích vào lúc chẳng ai dự tính. Bất ngờ ập đến cho cả hai phía. Lai chỉ kịp nhìn thấy lùm cây phía đường mòn chợt lay động, mặt người thấp thoáng, và những tia đạn đạo đan chéo nhau cùng một lúc.
Người tổ trưởng và ba trong số bốn tên lính Miên gục chết ngay sau loạt đạn đầu. Người bạn của Lai ném lựu đạn về phía tiếng rên la. Tiếng nổ chát chúa vang lên thanh toán trận chiến trong tích tắc. Khu rừng im lặng rợn người.
Người bạn lục soát xác lính Miên. Anh vội vã chạy ngược về phía Lai, vai ba lô, tay súng.
- Lẹ lên. Chạy theo tao xuống bờ sông. Tụi đại đội nghe tiếng súng xuống tiếp ứng bây giờ.
Người bạn hối hả nói rồi sửng sốt khi nghe Lai từ chối.
- Đ.M. Mầy có khùng không? Ở lại chỉ từ chết tới chết mà thôi. Chỉ cần lội qua sông. Trại tị nạn Liên Hiệp Quốc không xa đâu.
Đầu óc tỉnh táo lạ thường, Lai nói với người bạn đồng đội đang bối rối đứng nhìn.
- Muốn tao sống thì ráng bắn cho chính xác.
Anh lấy dãi băng cứu thương quấn nhiều lớp thật chặt một phần bàn tay phải rồi cầm súng đứng nép sát thân cây như trong tư thế chiến đấu. Hai ngón tay ở ngoài lớp vải băng cong cong run rẩy. Lai nghiến răng nhắm mắt chờ tiếng đạn nổ. Im lặng. Có tiếng nấc nghẹn của người bạn cố kềm giữ xúc động.
- Đ.M. Bắn lẹ lên. Tụi nó sắp tới rồi.
Tiếng nổ chát chúa cùng lúc với cảm giác bàn tay bị nhấc lên đau xé, khẩu AK rớt thịch xuống đất. Lai ôm cánh tay buốt nhói ngồi dựa lưng vào gốc cây. Người bạn nhào tới ôm Lai, vừa khóc vừa luống cuống băng lại bàn tay mất hai ngón bê bết máu. Lai vỗ vai bạn rồi đẩy hắn ra.
- Mầy chạy đi. Phải tự tay tao băng bó mới được. Mày đã bị tụi lính Pol Pot bắt đi rồi… Chạy lẹ đi.