HOT...........Cùng Phang em này nào .....
Phim Sex Tháng 2
GocViet.SexTgem.Com
Tip:Bạn Hãy Sử dụngUcwebđể download file tốt nhất!
Xem hướng dẫn
Danh mục chính
Thư viện truyện cho mobile. truyện kiếm hiệp,truyện cổ tích, truyện tiếu lâm
Truyện ngắn
Tôi hồi hộp ngồi xuống mép giường. Bố tôi sờ vào tay tôi, tay ông lạnh như băng, lạnh thẳng vào tim tôi. Bố tôi khe khẽ nói:
- Phú Quí này, nợ cờ bạc cũng là nợ, xưa nay không có cái lý nào không trả nợ. Bố đã thế chấp hơn một trăm mẫu ruộng và cả ngôi nhà này, ngày mai họ sẽ đem tiền đồng đến. Bố già rồi, không gánh được nữa, con sẽ tự gánh tiền đi trả nợ.
Nói xong bố tôi lại thở dài một tiếng. Nghe hết lời bố, mắt tôi cay cay, tôi biết ông không liều mạng với tôi. Nhưng lời của ông thì như một con dao cùn cứa vào cổ tôi, cổ không đứt hẳn mà đau đớn tới mức chết đi sống lại. Bố vỗ vỗ vào tay tôi:
- Con về buồng mà ngủ đi.
Sáng hôm sau, tôi vừa thức dậy đã nhìn thấy bốn người đi vào sân nhà mình, người đi đầu mặc quần áo lụa là ông chủ. Ông ta chỉ tay bảo ba người gánh mặc quần áo vải thô đi ở đằng sau:
- Đặt xuống.
Ba người gánh bỏ đòn gánh xuống, kéo vạt áo lau mồ hôi. Ông chủ kia nhìn tôi, song lại gọi bố tôi:
- Thưa ông Từ, hàng ông cần đã đến.
Bố tôi cầm khế ước ruộng và khế ước nhà ho sù sụ bước ra, ông đưa hai tờ khế ước cho người kia, cúi lưng nói:
- Vất vả nhỉ!
Người kia chỉ vào ba gánh tiền đồng, nói với bố tôi:
- Ở cả đấy, ông đếm đi.
Bố tôi hoàn toàn không có cái oai của người có tiền nữa, bố tôi kính cẩn nói như một kẻ nghèo hèn:
- Khỏi cần, khỏi cần, mời vào nhà uống chén trà.
Người kia đáp:
- Xin miễn.
Nói xong, ông ta nhìn tôi, hỏi bố tôi:
- Đây là cậu nhà ư?
Bố tôi gật đầu lia lịa, ông cười hì hì nói với tôi:
- Khi đưa hàng đi nhớ cấu mấy lá bí ngô đậy lên trên, đừng để người ta cướp mất.
Bắt đầu từ hôm nay, tôi gánh tiền đồng đi hơn mười dặm lên tỉnh trả nợ. Lá bí ngô đậy trên tiền đồng do mẹ tôi và Gia Trân hái. Nhìn thấy tôi gánh tiền đến, Long nhị hớn hở chào:
- A, cậu ấm nhà họ Từ, đến đấy hả!
Anh ta mở lá bí ra, chay chau mày, nói với tôi:
- Cậu làm thế này chẳng hóa ra tự chuốc khổ vào thân, sao không đổi ra một ít tiền bạc cho tiện ?
Sau khi tôi gánh gánh tiền đồng cuối cùng đến, thì anh ta không còn gọi tôi là cậu nữa. Anh ta gật đầu bảo:
- Phú Quí ơi, để ở chỗ này này.
Một chủ nợ khác tỏ ra thân mật hơn, anh ta vỗ vỗ vào vai tôi:
- Phú Quí ơi, đi uống một ấm nhé!
Long Nhị nghe xong rối rít nói:
- Phải, phải, đi uống một ấm nhé, tôi bỏ tiền.
Tôi lắc lắc đầu, nghĩ bụng ta về thôi, cả ngày nay chiếc áo lụa bị cọ sát cũng đã sờn, da ở vai bị thấm máu. Tôi lủi thủi đi về nhà, đi lại khóc, khóc lại đi. Tôi thầm nghĩ, mình mới gánh có một ngày tiền mà người đã rã rời cả ra, đời ông nội kiếm ra ngần ấy tiền không biết bao nhiêu người chết mệt. Đến bây giờ tôi mới biết tại sao bố tôi không lấy tiền bạc mà lấy tiền đồng, bố tôi muốn tôi biết cái lý này, muốn tôi hiểu làm ra đồng tiền là hết sức khó khăn. Nghĩ thế, tôi không sao bước đi được nữa, tôi ngồi xổm cạnh đường khóc nức nở. Lúc này, người ở cũ của nhà tôi, tức anh Trưởng Căn cũng tôi đi học thời còn bé, đeo một cái bọc rách đang đi tới; anh ta làm cho nhà tôi đã mấy chục năm, bây giờ cũng phải ra đi. Anh ta mồ côi bố mẹ từ lúc còn rất nhỏ. Ông nội tôi dẫn anh ta về, sau này cũng chẳng lấy vợ đẻ con. Cũng như tôi, anh ta khóc nức nở, hai bàn chân đi đất nứt nẻ; anh ta bước tới, nhìn thấy tôi ngồi xổm ở cạnh đường, anh ta cất tiếng chào:
- Chào ông trẻ.
Tôi bảo anh ta:
- Đừng gọi tôi là ông trẻ nữa, cứ gọi là đồ súc vật.
Anh ta lắc đầu nói:
- Hoàng đế an xin cũng là Hoàng đế, ông trẻ không có tiền cũng vẫn là ông trẻ.
Nghe nói vậy, nước mắt tôi lại ròng ròng. Anh ta cũng ngồi xổm bên cạnh tôi, tay úp mặt khóc hu hu. Chúng tôi khóc một trận, rồi tôi bảo anh ta:
- Trời sắp tối rồi, Trưởng Căn về nhà tôi đi.
Trưởng Căn đứng lên, lê từng bước. Tôi nghe thấy anh ta nói ồm ồm:
- Tôi làm gì còn có nhà mà về, thưa ông trẻ.
Sau khi Trưởng Căn đi, tôi cũng đứng lên đi về nhà. Khi tôi về đến nhà thì trời đã tối mịt. Người ở và con hầu trong nhà trước kia đều đi hết. Mẹ tôi và Gia Trân đang ở trong bếp, một người đốt lửa, một người nấu cơm. Bố tôi vẫn còn nằm trên giường, chỉ có con gái Phượng Hà vẫn vui vẻ như ngày thường. Nó đâu có biết từ nay trở đi sẽ phải khổ phải nghèo. Nó hớn hở chạy đến sà vào lòng tôi hỏi:
- Tại sao bọn họ bảo con không phải là tiểu thư nữa hả bố?
Tôi vuốt ve khuôn mặt bé nhỏ của nó, không nói nổi câu nào. Được cái Phượng Hà không hỏi nữa, nó lấy móng tay cạy hết vết bùn trên quần tôi, vui vẻ nói:
- Con giặt quần cho bố nhé!
Đến giờ ăn cơm, mẹ tôi đến cửa buồng bố tôi hỏi:
- Tôi bưng cơm vào buồng cho ông nhé?
Bố tôi đáp:
- Tôi ra ăn.
Bố tôi xách cây đèn dầu trong ba ngón tay từ trong buồng đi ra, ánh đèn chiếu vào mặt ông nửa sáng nửa tối. Ông còng lưng ho sù sụ, ngồi xuống hỏi tôi:
- Trả hết nợ rồi chứ?
Tôi cúi đầu trả lời:
- Trả hết rồi.
Bố tôi bảo:
- Thế là tốt. Thế là tốt.
Nhìn thấy vai tôi rớm máu, bố tôi lại hỏi:
- Vai cũng toạc ra ư?
Tôi im lặng, len lén nhìn mẹ tôi và Gia Trân. Cả hai người đều nhìn vai tôi, rơm rớm nước mắt. Bố tôi ăn chậm rãi, mới ăn được mấy miếng đã bỏ đũa bát xuống không ăn nữa. Một lúc sau, bố tôi nói:
- Ngày trước, ông bà tổ tiên họ Từ nhà mình chẳng qua là nuôi một con gà con, nuôi to rồi biến thành ngỗng, ngỗng nuôi to rồi biến thành dê, dê nuôi to rồi dê biến thành trâu. Gia đình họ Từ nhà mình phất lên như thế đấy.
Giọng bố tôi khò khè, ông dừng một lát rồi nói tiếp:
- Đến tay tôi, thì con trâu nhà họ Từ biến thành con dê, dê lại biến thành ngỗng; truyền đến anh, thì ngỗng biến thành gà, bây giờ thì ngay đến gà cũng không có.
Nói đến đây bố cười hì hì, cứ cười, cứ cười rồi khóc hu hu. Bố tôi giơ hai ngón tay nói với tôi:
- Nhà họ Từ đẻ ra hai thằng con hư đốn.
Chưa đầy hai ngày, Long Nhị đến nhà. Dáng anh ta khác hẳn. Trong mồm anh ta đã gắn hai cái răng vàng, há rõ to, cười khì khì. Anh ta đã mua nhà và ruộng đất chúng tôi thế chấp, anh ta đến xem tài sản của mình. Long Nhị giơ chân đá đá vào chân tường, lại dí sát tai vào tường, giơ lòng bàn tay vỗ vỗ, nói rối rít:
- Chắc lắm, chắc lắm!
Long Nhị đến một cái là chúng tôi phải dọn khỏi ngôi nhà đã từng ở mấy đời, dọn ra lều tranh.
Hôm dọn đi, bố tôi chắp hai tay ra đằng sau, đi đi lại lại trong mấy gian nhà, sau đó nói với mẹ tôi:
- Tôi vẫn cứ muốn sẽ chết ở trong ngôi nhà này.
Nói xong, bố tôi phủi bụi trên áo lụa, vươn cổ bước ra ngoài. Chưa bước ra khỏi ngưỡng cửa, bố tôi đã đâm đầu xuống đất. Bố tôi tắt thở trước khi trời tối. Ông là người cuối cùng chết trong ngôi nhà này của gia đình họ Từ chúng tôi.
Sau khi bố tôi chết, mẹ tôi và Gia Trân đều không dám khóc to, sợ tôi không chịu nổi cũng đi theo bố. Thỉnh thoảng tôi vô ý va vào cái gì đó, hai mẹ con lại giật nẩy người; thấy tôi không ngã gục ra đất như bố, mẹ tôi và vợ tôi mới yên tâm lên tiếng hỏi:
- Không sao đấy chứ?
Những ngày ấy tôi rã rời toàn thân như bị ôn dịch, suốt ngày ngôi trên đất trước lều tranh, khóc lóc chán lại thở dài thườn thượt. Mẹ tôi bước đến bảo:
- Chỉ cần còn người là vui rồi, nghèo cũng không sợ.
Mẹ an ủi tôi, mẹ cứ tưởng tôi bị cảnh nghèo hành hạ thành ra thế này. Thật ra trong lòng tôi đang nghĩ đến người bố đã chết. Bố tôi đã chết trong tay tôi. Mẹ tôi, Gia Trân, cả cháu Phượng Hà nữa sống khổ sống sở theo tôi.
Ngày thứ ba sau khi bố tôi chết, bố vợ tôi đã đến. Ông thuê một cái kiệu bốn người khiêng từ ngoài đường xồng xộc đi vào. Lúc ấy tôi đang làm việc ở ngoài đồng, vừa nhìn thấy đôi chân của bố vợ tôi bước lập cập, tôi đã biết ngay ông ấy đến đón Gia Trân về nhà. Ông bảo người khiêng đặt kiệu  trước lều tranh nhà tôi, tay phải nhấc áo dài bước vào. Đầu tiên tôi nghe thấy tiếng ông giận dữ, sau đó là tiếng khóc của Gia Trân, không nghe thấy tiếng của mẹ tôi. Chẳng bao lâu Gia Trân ưỡn cái bụng to đi ra. Cô ấy đứng ở bên kiệu nhìn tôi. Bố vợ tôi nói với con gái mấy câu, cô ấy bước lên kiệu. Người mẹ đáng thương của tôi đứng ở một bên, không nói sao. Khi kiệu lên vai khiêng đi, mẹ tôi vẹo vọ bước đôi chân bé xíu đi theo ra mãi đầu làng, đứng ở ngoài đó lâu lắm.
Bố vợ tôi tay nhấc áo dài, đi nhanh như kiệu. Sau khi họ đi xa, mẹ tôi lau nước mắt tập tễnh quay về.
Lúc này Phượng Hà chạy đến, mở to mắt nói với tôi:
- Bố ơi, mẹ con ngồi kiệu cơ đấy.
Cái dáng hớn hở của Phượng Hà khiến tôi đau khổ. Tôi bảo con gái:
-Phượng Hà ơi, con đừng quên bố là bố của con đấy nhé!
Nghe tôi nói vậy, Phượng Hà cười khanh khách, nói:
- Bố cũng đừng quên con là Phượng Hà.
Sau  khi Gia Trân đi, mẹ tôi thường ngồi ở một bên len lén lau nước mắt. Tôi muốn nói mấy câu an ủi mẹ, nhưng cứ nhìn bóng dáng bà như thế, tôi chẳng nói được câu nào. Ngược lại, mẹ thường bảo tôi:
- Gia Trân là vợ của con, không phải của ai cả, chẳng người nào cướp đi được.
Long Nhị trở thành địa chủ ở đây, tôi liền đi cày thuê cấy rẽ cho anh ta.
Ngồi ở trên ghế thái sư trong nhà tôi, Long Nhị há mồm có cái răng vàng, cười tít mắt hỏi tôi:
- Anh cần mấy mẫu? (Ghi chú luôn là mỗi mẫu TQ bằng 667 m2)
Tôi đáp:
- Thuê năm mẫu.
- Năm mẫu à? -Anh ta rướn long mày mấy cái, hỏi -Sức anh thế này, được ư?
Tôi đáp:
- Rèn luyện thì sẽ được.
Anh ta suy nghĩ rồi bảo:
- Chúng ta là chỗ quen biết cũ, tôi để cho anh năm mẫu ruộng tốt.
Long Nhị vẫn còn giữ chút ít tình bạn cũ, anh ta cho tôi cấy rẽ năm mẫu ruộng tốt thật. Một mình tôi cày cấy năm mẫu ruộng. Lúc nào còn nhìn thấy, tôi đều ở ngoài ruộng. Phượng Hà ngày nào cũng theo tôi ra ngồi ở bờ ruộng. Nó hái những bông hoa dại cài lên đầu, luôn mồm hỏi bố nó giống cái gì. Lúc mùa vụ bận rộn, mẹ tôi cũng ra đồng làm giúp tôi một số việc.
Long Nhị thường mặc áo tơ lụa, tay phải cầm ấm trà đi đi lại lại ở bờ ruộng, trông ra vẻ lắm. Lúc nào anh ta cũng cười, khi nhìn thấy người nông dân không ưng ý, mẹ kiếp, anh ta cũng cười. Lúc đầu, tôi cứ tưởng anh ta đối xử thân mật với mọi người, dần dần tôi mới biết anh ta muốn ai ai cũng nhìn thấy cái răng vàng của mình.
Một hôm tôi đang gặt lúa, Phượng Hà đi mót ở đằng sau, Long Nhị khệnh khạng bước đến bảo:
- Phú Quí ơi, tôi chừa đánh bạc rồi, để sau này khỏi phải đến nỗi như anh.
Tôi khom lưng kính cẩn:
- Vâng,thưa ông trẻ Long.
Long Nhị chỉ vào Phượng Hà, hỏi:
- Con gái anh đây à?
Tôi lại khom lưng lễ phép đáp:
- Vâng, thưa ông trẻ Long.
Tôi nhìn thấy Phượng Hà đứng ở đó, cầm bông thóc trong tay, mắt cứ nhìn chòng chọc vào Long Nhị, liền vội vàng giục con:
- Phượng Hà, mau mau chào ông trẻ Long đi con.
Phượng Hà cũng học tôi lom khom lưng cất tiếng:
- Vâng, thưa ông trẻ Long.
Tôi thường nhớ Gia Trân, nhớ cả đứa con ở trong bụng vợ. Gia Trân đi được ba tháng, nhờ người nhắn tin về, bảo là đã ở cữ, đẻ một cậu con trai, bố vợ tôi đặt cho nó cái tên là Hữu Khánh. Mẹ tôi khẽ hỏi người nhắn tin:
- Hữu Khánh họ gì?
Người kia đáp:
- Họ Từ.
Lúc ấy tôi đang ở ngoài ruộng, mẹ tôi lật đật bước hai bàn chân nhỏ xíu dặt dẹo ra đồng báo tin. Mẹ chưa nói hết đã đưa vạt áo lau nước mắt, sau đó cứ rối rít bảo phải ra tỉnh thăm cháu nội. Vài ngày sau không thấy mẹ đi, tôi cũng không tiện hỏi. Theo tục lệ ở địa phương chúng tôi, gia Trân bị người nhà mẹ đẻ bắt ép phải đi thì cũng nên do người nhà mẹ đẻ đưa về. Mẹ tôi bảo:
- Hữu Khánh họ Từ thì Gia Trân cũng về nay mai thôi.
Mẹ tôi còn nói:
- Gia Trân hiện giờ còn đang yếu, vẫn nên ở trên tỉnh thì hơn. Gia Trân phải được tẩm bổ tử tế.
Khi Hữu Khánh được sáu tháng thì Gia Trân trở về. Khi trở về cô ấy không ngồi kiệu, cô ấy địu Hữu Khánh ở sau lưng đi bộ hơn mười dặm về nhà. Hữu Khánh nhắm mắt, cái đầu bé tí tẹo tựa vào lưng mẹ, lắc bên này lư bên kia, trở về nhận bố.
Gia Trân mặc áo dài màu đỏ tươi, xinh xắn trở về. Đi đến cửa lều tranh nhà tôi, cô ấy không bước vào ngay mà đứng ở ngoài tươi cười nhìn mẹ tôi.
Mẹ tôi ngồi đan giày cỏ ở trong nhà, khi ngẩng mặt lên thì nhìn thấy một người đàn bà xinh đẹp đứng ở cửa. Người Gia Trân đã che mất ánh sáng, mẹ tôi không nhận ra con dâu, cũng không nhìn thấy Hữu Khánh ở sau lưng. Mẹ hỏi:
- Tiểu thư nhà nào vậy, cô tìm ai?
Nghe vậy, Gia Trân cười khanh khách, nói:
- Con đây, Gia Trân đây, thưa mẹ!
Lúc ấy, tôi và Phượng Hà đang ở ngoài đồng. Phượng Hà ngồi ở bờ ruộng xem tôi cấy. Tôi nghe thấy có tiếng gọi mình, giống tiếng mẹ tôi mà cũng có phần không giống. Tôi bảo con gái:
- Ai đang gọi thế con?
Phượng Hà quay người nhìn, rồi đáp:
- Bà nội, bố ạ.
Tôi đứng thẳng lên nhìn thấy mẹ đang đứng ở cửa lều tranh còng lưng gọi to, Gia Trân mặc áo dài màu đỏ tươi bế Hữu Khánh đứng bên cạnh. Phượng Hà vừa nhìn thấy mẹ đã co cẳng chạy đi. Tôi đứng giữa ruộng nước, nhìn dáng mẹ lưng còng gọi con, mẹ gọi khỏe quá, hai tay chống vào đùi để khỏi ngã gập người xuống. Phượng Hà chạy thục mạng, đứa con gái lên năm của tôi cứ chao chao đảo đảo trên bờ ruộng, rồi nó sà vào lòng mẹ. Gia Trân bế Hữu Khánh ngồi xuống ôm Phượng Hà. Lúc này tôi mới lên bờ, mẹ tôi vẫn đang gọi, càng đến gần nhà, đầu tôi càng choang choáng. Tôi đến trước mặt Gia Trân mỉm cười với vợ. Gia Trân đứng lên, cứ chằm chằm nhìn tôi. Lúc này tôi đã không còn là Phú Quí mặc áo lụa, tôi đang mặc quần áo vải thô rách rưới, toàn thân lấm bê lấm bết. Nhìn dáng tôi như vậy, Gia Trân cúi đầu sụt sịt khóc.
Gia Trân trở về, gia đình lại đông đủ, tôi đi làm cũng có người giúp việc. Tôi bắt đầu thương vợ mình. Gia Trân bảo tôi như vậy, chứ tôi có cảm thấy gì đâu. Tôi thường nói với Gia Trân:
- Em lên bờ nghỉ một lúc đi.
Gia Trân là cô gái thành thị, da mịn thịt non, chân yếu tay mềm, nhìn cô ấy làm việc đồng áng, tôi cứ thấy thương thương. Nghe tôi giục đi nghỉ, Gia Trân vui vẻ cười và bảo:
- Em không mệt.
Mẹ tôi nói đúng, chỉ cần con người sống vui vẻ là không sợ nghèo. Gia Trân cởi bỏ áo dài, cũng mặc áo vải thô như tôi, suốt ngày cô ấy làm việc mệt thở không ra hơi, mà vẫn cứ tươi cười. Phượng Hà là con bé ngoan, chúng tôi từ nhà ngói dọn ra ở lều tranh, mà cháu vẫn vui vẻ, ăm cơm độn ngô độn khoai mà cũng không nhổ đi. Sau khi em trai về, nó càng vui hớn hở, không còn theo bố ra đồng nữa, cứ luôn luôn ở nhà bế em. Hữu Khánh mới ở tỉnh được sáu tháng đã phải về bên bố chịu khổ. Tôi cảm thấy mình rất có lỗi với con trai.
Cứ như thế sống được một năm thì mẹ tôi bị ốm. Mới đầu chỉ là chóng mặt, mẹ tôi bảo nhìn con cháu cứ lờ mờ; tôi cũng không để ý lắm, nghĩ bụng mẹ đã cao tuổi, mắt mờ là chuyện đương nhiên. Sau đó có một hôm, lúc đun bếp đột nhiên mẹ tôi gục đầu vào tường như đang ngủ. Khi hai vợ chồng tôi từ ngoài đồng về, mẹ tôi vẫn gục như vậy. Gia Trân gọi mẹ, mẹ cũng không đáp; đưa tay lay người mẹ, thì mẹ trượt theo bờ tường. Gia Trân sợ quá gọi tôi, khi tôi vào bếp thì mẹ đã tỉnh, mẹ trân trân nhìn chúng tôi. Chúng tôi hỏi mẹ, mẹ cũng không trả lời. Một lúc sau, mẹ ngửi thấy mùi khét, biết nồi cơm đã cháy, mới cất tiếng:
- Ái chà, sao mẹ lại ngủ thế nhỉ?
Mẹ tôi hốt hoảng định đứng lên, mới đứng được nửa người thì chân thõng ra, người ngã xuống. Tôi vội vàng bế mẹ lên giường, mẹ tôi cứ luôn mồm nói mình đã ngủ say, mẹ sợ chúng tôi không tin. Gia Trân kéo tôi ra một bên, bảo:
- Anh lên tỉnh mời thầy lang về xem sao.
Mời thầy lang thì phải có tiền, tôi cứ đứng lặng thinh. Gia Trân lật nệm lấy ra hai đồng bạc gói trong khăn mùi xoa. Nhìn hai đồng tiền bằng bạc, tôi có phần đau lòng, đó là số tiền Gia Trân đem từ tỉnh về, chỉ còn lại hai đồng này. Sức khỏe của mẹ tôi càng khiến tôi lo lắng, tôi liền cầm lấy tiền. Gia Trân gấp ngay ngắn chiếc khăn mùi xoa lại nhét vào dưới nệm, lấy ra một bộ quần áo sạch sẽ bảo tôi mặc vào. Tôi bảo vợ:
- Anh đi nhé.
Gia Trân không đáp, cô ấy đi theo tôi ra cửa. Đi được mấy bước tôi quay đầu nhìn vợ, vợ tôi vuốt vuốt tóc về đằng sau gật gật đầu chào tôi. Từ sau khi Gia Trân trở về, đây là lần đầu tiên tôi xa nhà. Tôi mặc bộ quần áo tuy rách nhưng sạch sẽ, chân đi giày cỏ mẹ tôi bện để vào thành phố. Phượng Hà ngồi ở sân trước cửa bế Hữu Khánh đang ngủ. Nhìn thấy bố mặc gọn gàng sạch sẽ, nó hỏi:
- Bố ơi, bố ra đồng đấy à?
Tôi đi nhanh lắm, chưa đầy nửa tiếng đồng hồ đã đến tỉnh. Đã hơn một năm rồi tôi không lên tỉnh, bây giờ vào thành phố trong lòng có phần ngỡ ngàng. Tôi liền nghĩ đến Gia Trân, nghĩ đến vợ cũng không sợ gặp người quen nữa. Tôi ăn mặc có rách rưới một chút, nhưng Gia Trân vẫn tốt với tôi như trước. Tôi biết hết mấy thầy thuốc trong thành phố trình độ khám chữa thế nào, ai lấy đắt, ai lấy vừa phải. Suy nghĩ một lát, tôi quyết định vẫn nên đến tìm thầy lang Lâm ở cạnh cửa hàng lụa. Ông lang này là bạn của bố vợ tôi, thấy người nhà của Gia Trân có lẽ ông ta cũng không nỡ lấy quá đắt.
Khi đi qua phủ cụ huyện, tôi nhìn thấy một em bé mặc áo lụa đang kiễng chân cố sức định nắm lấy cái vòng đồng gõ cổng. Cậu bé suýt soát tuổi con gái tôi, tôi bảo nó:
- Để ta gõ giúp cháu.
Cậu bé vui vẻ gật đầu, tôi liền móc tay cầm vòng đồng gõ thật mạnh mấy cái, ở bên trong có người nói vọng ra:
- Có đây.
Lúc này cậu bé mới nói với tôi:
- Chúng ta mau mau chạy đi thôi.
Tôi chưa hiểu ra sao, thì cậu bé nép sát bờ tường chuồn mất. Sau khi mở cổng, một người đàn ông ăn vận kiểu đầy tớ vừa nhìn thấy bộ quần áo của tôi, chẳng nói năng chi, giơ tay đẩy tôi một cái. Tôi không ngờ anh ta lại làm thế, loạng choạng ngã từ bậc thềm xuống. Tôi bò dậy, vốn định cho qua, song thằng cha kia lại bước xuống đá tôi một phát, còn bảo:
- Đi ăn mày thì cũng phải xem xem chỗ này là chỗ nào chứ.
Tôi cáu tiết, chửi luôn:
- Ta có phải gặm xương mục trong mộ tổ nhà người, cũng không thèm đến ăn xin nhà ngươi đâu nhé!
Hắn xô đến đánh liền, tôi bị một quả đấm vào mặt, hắn cũng bị tôi đá một cú, hai chúng tôi túm đánh nhau trong phố. Thằng nhãi này gớm ra phết, xem chừng không thắng nổi tôi, liền túm chặt đũng quần nhấc chân, còn tôi cho hắn mấy cái đá đít. Cả hai đứa chúng tôi không biết đánh nhau, quần đảo nhau một lúc thì nghe có ai đó ở đằng sau quát:
- Ê, xấu quá, hai thằng súc sinh này đánh nhau trông ngứa mắt quá thể.
Chúng tôi bỏ nhau ra, nhìn về phía đằng sau, thì thấy một ông đội lính Quốc dân đảng mặc quần áo vàng đứng ở đó, mười cỗ pháo lớn đều do ngựa kéo. Người quát vừa  giờ đeo súng lục ở lưng là một sĩ quan. Tên người hầu kia quả là linh hoạt, vừa nhìn thấy viên sĩ qua, hắn liền cúi đầu khom lưng:
- Thưa quan lớn, hì hì, thưa quan lớn.
Viên sĩ qua huơ huơ tay bảo chúng tôi:
- Hai con lừa ngu xuẩn, không biết đánh nhau thì kéo pháo cho ta.
Tôi vừa nghe nói vậy đã rùng mình lạnh toát người, ông ta định bắt tôi đi lính. Tên người hầu kia cũng hãi, bước lên nói:
- Thưa quan lớn, con vốn là người trong nhà cụ huyện của huyện này.
Viên sĩ quan nói:
- Công tử của cụ huyện lại càng phải dốc sức vì đảng vì nước.
- Không, không! – Tên đầy tớ sợ hãi rối rít – Con không phải là công tử, có đánh chết con cũng không dám. Thưa ông trung đội trưởng, con là đầy tớ của cụ huyện.
- Mẹ kiếp! – Viên sĩ quan chửi to – Ta là đại đội trưởng.
- Vâng, vâng, thưa đại đội trưởng, con là đầy tớ của cụ huyện.
Tên đầy tớ kia có nói đến mấy cũng vô ích, ngược lại còn làm cho ông sĩ quan bực tức, ông ta giờ tay cho hắn một cái tát.
- Mẹ kiếp, nói in ít thôi, đi kéo pháo! – Ông ta nhìn đến tôi – Cả mày nữa!
Tôi đành phải bước tới kéo một dây cương ngựa đi theo họ về phía trước. Tôi nghĩ, đến lúc ấy sẽ tìm cơ hội trốn chạy sau. Tên đầy tớ vẫn còn van nài cầu xin trước mặt đại đội trưởng; đi được một đoạn, đại đội trưởng tự nhiên đồng ý. Ông ta bảo:
- Được, được, nhà ngươi về đi, mày làm tao chán chết đi mất.
Tên đầy tớ hớn hở run lên, hắn ta như muốn quì xuống cúi đầu lạy đại đội trưởng, song lại không quỳ, chỉ đứng trước mặt đại đội trưởng xoa xoa tay liên tục. Đại đội trưởng quát:
- Còn chưa cút đi hả?
Tên đầy tớ thưa:
- Cút, cút, con cút đây ạ!
Nói xong hắn quay người đi luôn. Bấy giờ đại đội trưởng mới rút súng lục ở lưng ra, giơ tay ngang vai, ngắm một mắt vào nhằm trúng tên đầy tớ đang đi. Tên đầy tớ đi được hơn mười bước quay đầu lại nhìn, thấy vậy hắn sợ tới mức đứng ngây ra tại chỗ không nhúc nhích, giống như con chim sẻ ban đêm để đại đội trưởng ngắm bắn. Lúc ấy đại đội trưởng bảo hắn:
- Đi đi, đi đi!
Tên đầy tớ quì sụp xuống đất, vừa khóc vừa nói:
- Thưa đại đội trưởng, đại đội trưởng, đại đội trưởng…
Đại đội trưởng bắn hắn một phát, không bắn trúng mà bắn cạnh hắn, viên đá nhỏ văng vào làm hắn toạc chảy máu. Đại đội trưởng cầm súng huơ tay nói:
- Đứng lên, đứng lên!
Hắn đứng dậy, đại đội trưởng lại nói:
- Đi đi, đi đi!
Hắn khóc tahrm thiết lắm, cứ lắp ba lắp bắp:
- Con xin kéo pháo, thưa đại đội trưởng.
Đại đội trưởng lại giơ súng ngang vai ngắm vào hắn lần nữa, mồm nói:
- Đi nào, đi nào!
Lúc này tên người hầu mới đột nhiên vỡ lẽ, hắn quay người chạy như bay như biến. Khi đại đội trưởng bắn phát thứ hai, thì hắn vừa vặn tạt vào trong ngõ. Đại đội trưởng nhìn khẩu súng lục của mình, chửi một tiếng:
- Mẹ kiếp, ta lại nhắm sai một con mắt.
Đại đội trưởng quay lại nhìn tôi đứng ở đằng sau, giơ súng bước đến chĩa nòng vào ngực tôi, bảo:
- Mày cũng về chứ?
Hai chân tôi run bần bật, nghĩ bụng lần này cho dù ông ta có nhắm cả hai mắt cũng cho tôi một phát về chầu giời. Tôi rối rít nói:
- Con kéo pháo, con kéo pháo.
Tay phải tôi nắm dây cương, tay trái nắm chặt hai đồng bạc Gia Trân cho tôi để trong túi áo. Khi ra khỏi thành phố, nhìn thấy cánh đồng và cái lều tranh giống nhà mình, tôi cúi đầu rưng rưng nước mắt.
Tôi đi theo đại đội pháo này lên phía Bắc, càng đi càng xa. Hơn một tháng sau chúng tôi đến An Huy. Mấy hôm đầu tôi cứ định trốn. Lúc bấy giờ không phải chỉ có tôi muốn trốn, cứ hai ngày trong đại đội lại thiếu đi một vài khuôn mặt quen quen. Tôi liền hỏi một linh cũ là Lão Toàn. Lão Toàn bảo:
- Không ai chạy nổi đâu.
Lúc kháng chiến Lão Toàn cũng bị bắt đi lính, hành quân đến Giang Tây anh ta đã bỏ trốn, vài hôm sau lại bị quân đội Phúc Kiến bắt đi. Đi lính hơn sáu năm, chưa đánh nhau với quân Nhật, chỉ đánh nhau với du kích của Đảng Cộng sản. Trong thời gian ấy, Lão Toàn trốn lính bảy lần, lần nào cũng bị bắt lại. Lần cuối cùng chỉ cách nhà hơn một trăm dặm, kết quả gặp phải đơn vị này. Lão Toàn không định trốn lính nữa. Anh ta bảo:
- Mình đào ngũ chán rồi.
Sau khi chúng tôi vượt dòng Trường Giang thì bắt đầu mặc áo bông. Qua được Trường Giang thì ý định đào ngũ của tôi cũng chết hẳn, cách nhà càng xa thì tôi càng không có gan đào ngũ nữa. Đại đội của tôi có đến mười đứa con trai mới mười lăm mười sáu tuổi, trong đó có một cậu lính choai choai là Xuân Sinh, người Giang Tô, hắn cứ dò hỏi tôi đi lên phía Bắc có phải đánh nhau không, tôi bảo phải. Thật ra tôi cũng không biết. Tôi nghĩ, đã đi lính thì tránh sao khỏi đánh nhau. Xuân Sinh và tôi thân nhau lắm. Cậu ấy cứ bám riết tôi, kéo cánh tay tôi hỏi:
- Liệu chúng mình có bị đánh chết không?
Tôi đáp:
- Mình không biết.
Khi nói ra câu ấy, trong lòng tôi cũng đau đớn khó chịu lắm. Sau khi vượt sông Trường Giang, chúng tôi bắt đầu nghe thấy tiếng súng. Đầu tiên nghe văng vẳng từ xa vọng lại, chúng tôi đi tiếp hai ngày nữa, tiếng súng tiếng pháo càng ngày càng to. Hôm ấy, chúng tôi vào một làng, trong làng đừng nói chi đến người, ngay đến con gà con lợn cũng không có. Đại đội trưởng ra lệnh cho chúng tôi lắp đại bác, tôi biết chuyến này chắc là sắp đánh nhau thật sự. Có người đi đến hỏi đại đội trưởng:
- Đây là đâu, thưa đại đội trưởng?
Đại đội trưởng đáp:
- Mày hỏi ta, mẹ kiếp, ta hỏi ai hả?
Ngay đến đại đội trưởng cũng không biết chúng tôi đã đến đâu. Người trong làng đã bỏ chạy sạch, tôi nhìn bống chung quanh, ngoài cây cối trơ trụi chẳng thấy cái gì khác. Được hai hôm thì lính mặc áo vàng mỗi lúc một đông, ở chung quanh họ rút đi đội này, thì đội khác lại đến, có những đơn vị đóng ngay cạnh chúng tôi. Lại qua hai hôm nữa, đại bác của chúng tôi vẫn chưa bắn. Đại đội trưởng nói với chúng tôi:
- Chúng ta đã bị bao vây.
Không phải chỉ có đại đội của chúng tôi bị bao vây, cả quân đoàn có đến mười vạn người hoàn toàn bị vây hãm trong một địa phương chỉ có hai mươi dặm vuông, đâu đâu cũng có lính áo vàng, cứ y như đi trẩy hội. Lúc này Lão Toàn thánh thật, anh ta ngồi hút thuốc trên một mô đất trong chiến hào, nhìn những anh lính da vàng đi đi lại lại, thỉnh thoảng chào hỏi ai đó trong bọn họ, anh ta quen nhiều người lắm. Lão Toàn  đi Nam về Bắc, đã từng sống ở bảy đơn vị quân đội. Anh ta hỉ hả nói bậy bạ với mấy người quen cũ, hỏi thăm nhau mấy tên người, tôi nghe họ nói không phải chết đâu, vì hai hôm trước có nhìn thấy nhau mà. Lão Toàn sau đó nói với tôi, nhưng anh có đó trước đây đã cùng đào ngũ với anh ta. “Cậu xem, - Lão Toàn nói – chẳng ai chạy thoát đâu”.
Lúc mới đầu chúng tôi chỉ bị vây, quân Giải phóng không lập tức đến đánh chúng tôi, chúng tôi cũng không sợ mấy, đại đội trưởng cũng không sợ. Ông ta bảo Ủy viên Tưởng Giới Thạch sẽ cử xe tăng đến cứu chúng tôi. Sau đó, tiếng súng ở phía trước mỗi lúc một gần, chúng tôi cũng không phải sợ lắm, chỉ có điều chẳng ai có việc gì làm, đại đội trưởng cũng không ra lệnh chúng tôi bắn pháo. Có một người lính cũ nghĩ đến anh em ở phía trước đổ máu toi mạng; chúng tôi chơi dài cũng chẳng phải chuyện hay, anh ta liền đi hỏi đại đội trưởng:
- Chúng ta có nên bắn mấy quả pháo không ạ?
Lúc ấy đại đội trưởng đang nấp trong hầm đánh bạc, ông ta giận dữ hỏi lại:
- Bắn vào đâu hả?
Đại đội trưởng nói cũng đúng, nếu bắn mấy quả vào đầu anh em quân mình, cả quân đoàn ở phía trước cáu tiết lên quay lại thanh toán chúng tôi thì chẳng phải chuyện đùa. Đại đội trưởng ra lệnh cho chúng tôi cứ ngồi tại trận địa, thích làm gì thì làm, chỉ có điều không được bắn pháo.